Hiệu quả của được mang lại từ hoạt động kinh doanh quốc tế là gì đều có thể được đánh giá trên các góc độ từ rộng đến hẹp: tác động đến nền kinh tế thế giới, tác động đến từng quốc gia, lợi ích của chủ sở hữu vốn. Trong nội dung dưới đây, SSBM Việt Nam sẽ giải thích chi tiết về tác động của đầu tư quốc tế đối với nền kinh tế hiện nay.
1. Đầu tư quốc tế là gì?
Đầu tư quốc tế là việc các nhà đầu tư của một quốc gia (có thể là cá nhân hoặc tổ chức pháp nhân) đưa vốn hoặc bất kỳ hình thức giá trị nào sang một quốc gia khác để thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động đầu tư khác nằm thu lợi nhuận hoặc đạt các hiệu quả kinh tế xã hội.
Về bản chất, đầu tư quốc tế là sự vận động của tiền hoặc các tài sản khác giữa các quốc gia nhằm điều chỉnh tỷ lệ kết hợp giữa các yếu tố kinh tế nhằm tối đa hoá lợi ích. Sự vận động của vốn giữa các quốc gia đã tạo thành các dòng chảy của vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác nhằm làm cho vốn sinh lợi nhanh hơn. Lượng vốn di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác được gọi là vốn đầu tư quốc tế.

2. Nguyên nhân dẫn đến đầu tư quốc tế
Một số nguyên nhân chính dẫn đến nhu cầu về việc hình thành hoạt động đầu tư quốc tế có thể kể đến như sau:
- Quá trình toàn cầu hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ tạo nên môi trường thuận lợi cho sự di chuyển các nguồn lực, trong đó có sự đầu tư, giữa các nước.
- Trình độ phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất và phân bố không đều giữa các yếu tố sản xuất.
- Do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật được thể hiện rõ nét trên hai phương diện: Nhu cầu vốn cho phát triển Khoa học kỹ thuật ngày càng lớn và Vòng đời công nghệ ngày càng bị rút ngắn lại.
- Đầu tư quốc tế để tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch xâm nhập và sự bành trướng sức mạnh của các công ty xuyên quốc gia (TNCs).
- Đầu tư quốc tế là một hình thức quan trọng nhằm nâng cao uy tín quốc tế và thực hiện các mục đích chính trị – xã hội dựa trên vị thế về kinh tế – tài chính.
- Đầu tư ra nước ngoài nhằm tận dụng tối đa lợi ích từ các chính sách thuế và tìm cơ hội tối thiểu hoá rủi ro so với đầu tư trong nước.
Xem thêm: Học MBA online cần lưu ý những điều gì?
3. Những nguồn đầu tư quốc tế
Đầu tư quốc tế cơ bản được phân thành 2 loại dựa trên đối tượng đầu tư: Đầu tư tư nhân quốc tế và Đầu tư phi tư nhân quốc tế.
3.1. Đầu tư tư nhân quốc tế
Loại hình đầu tư quốc tế của đối tượng tư nhân thường được diễn ra dưới 3 hình thức sau:
3.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI)
FDI là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư của một nước đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư cho một dự án ở nước khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án đó.
Đầu tư quốc tế trực tiếp nước ngoài FDI có một số đặc điểm sau:
- FDI chủ yếu là đầu tư tư nhân với mục đích hàng đầu là tìm kiếm lợi nhuận.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm.
- Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ.

3.1.2. Đầu tư chứng khoán nước ngoài (Foreign Portfolio Investment – FPI)
Đầu tư chứng khoán nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư của một nước mua chứng khoán của các công ty, các tổ chức phát hành ở một nước khác với một mức khống chế nhất định để thu lợi nhuận nhưng không nắm quyền kiểm soát trực tiếp đối với tổ chức phát hành chứng khoán.
Một số đặc điểm chung của hình thức đầu tư chứng khoán nước ngoài FPI:
- Chủ đầu tư nước ngoài nắm giữ chứng khoán, không nắm quyền kiểm soát.
- Số lượng chứng khoán mà các công ty nước ngoài được mua có thể bị khống chế ở mức độ nhất định tùy theo từng nước.
- Thu nhập của chủ đầu tư cố định hoặc không tùy loại chứng khoán mà họ đầu tư.
- Phạm vi đầu tư chỉ giới hạn trong số các hàng hóa đang lưu hành trên thị trường chứng khoán của nước nhận đầu tư.
Đầu tư chứng khoán không được tiến hành với mục đích giành một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với doanh nghiệp được đầu tư, mà chỉ với kỳ vọng về một khoản lợi nhuận tương lai dưới dạng cổ tức, lãi suất hoặc phần chênh lệch giá.
Các nhà đầu tư chứng khoán thường là các tổ chức tài chính, các nhà đầu tư tổ chức, các nhà đầu tư cá nhân. Trong khi các nhà đầu tư trực tiếp thường là các nhà sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ.

3.1.3. Tín dụng quốc tế (International Loans)
Tín dụng quốc tế là nhượng quyền sử dụng vốn của chủ thể tín dụng nước này sang cho chủ thể nước kia nhằm mục đích kinh doanh theo nguyên tắc hoàn trả cả vốn gốc và lãi trong một thời hạn nhất định.
Đầu tư quốc tế qua hình thức tín dụng có những đặc điểm cơ bản bao gồm:
- Nguồn tín dụng do bên cho vay (chủ đầu tư) tự tạo bằng vốn tự có hoặc bằng vốn huy động trên thị trường vốn trong nước hay quốc tế.
- Đồng tiền cho vay có thể đồng tiền của nước chủ đầu tư, hoặc một ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.
- Lãi suất được quy định bởi mức độ rủi ro.
- Bên cho vay thường yêu cầu các khoản tín dụng phải được bảo lãnh.
Xem thêm: Chương trình Thạc sĩ Quản trị kinh doanh quốc tế (Global MBA) tại SSBM Việt Nam
3.2. Đầu tư phi tư nhân quốc tế
Đầu tư phi tư nhân quốc tế là các khoản viện trợ của các tổ chức quốc tế dành cho các quốc gia khác, bao gồm 2 hình thức là Hỗ trợ phát triển chính thức ODA và Hỗ trợ chính thức OA.
3.2.1. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Vốn ODA là hình thức đầu tư quốc tế thông qua các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi của các Chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc (UN), các tổ chức tài chính quốc tế dành cho các nước đang và chậm phát triển.
Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể
nhận được vốn ODA:
- GDP bình quân đầu người thấp, Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
- Mục tiêu sử dụng vốn ODA của nước nhận phải phù hợp với chính sách ưu tiên cấp ODA của nhà tài trợ.
Các nước và các tổ chức cung cấp ODA:
- DAC chiếm phần lớn (90%).
- Các tổ chức tài chính quốc tế.
- Các quỹ phi chính phủ.
- Các tổ chức phi chính phủ.
3.2.2. Hỗ trợ chính thức (OA)
Vốn OA trong đầu tư quốc tế là dòng vốn viện trợ dành cho mọi đối tượng nhận đầu tư mà ít bị ràng buộc bởi điều kiện về Tổng Sản phẩm Nội Địa – GDP như vốn ODA.
Về cơ bản, vốn OA có những đặc điểm gần giống như vốn ODA, với điểm khác nhau chủ yếu là đối tượng tiếp nhận đầu tư. Trong khi ODA chỉ dành cho các nước đang và chậm phát triển, thì OA có thể đầu tư cho cả một số nước thuộc nhóm quốc gia có thu nhập cao.
- Xem thêm: Tìm hiểu thêm về Hedge Fund – Quỹ Phòng hộ là gì
4. Những tác động của Đầu tư quốc tế đến với quốc gia nhận đầu tư
Đối với quốc gia tiếp nhận vốn trong quy trình đầu tư quốc tế, một số tác động đa chiều có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh tế – xã hội và chính trị của quốc gia đó..
4.1. Tác động tích cực
- Được hưởng lợi từ việc chuyển giao công nghệ: Khi tiếp nhận dòng vốn đầu tư quốc tế, các quốc gia đang hoặc chậm phát triển sẽ được tiếp cận với công nghệ mà các quốc gia phát triển đã hoặc đang sử dụng để phục vụ cho dự án đầu tư đó. Sau khi tiếp nhận được công nghệ phát triển từ các MNCs, quốc gia tiếp nhận đầu tư có thể sử dụng chúng cho mục đích phát triển riêng của mình.
- Giải quyết vấn đề về thị trường lao động nội địa: Nhận nguồn vốn đầu tư quốc tế giúp hình thành nhiều doanh nghiệp nước ngoài hoặc có vốn nước ngoài, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho quốc gia tiếp nhận vốn. Nhờ vào đó, vấn đề thất nghiệp sẽ phần nào được giải quyết, là cơ sở để đảm bảo an sinh – xã hội quốc gia.
- Cải thiện cán cân thanh toán: Khi các MNCs hoạt động trực tiếp tại một quốc gia bất kỳ, người dân có thể trực tiếp chi tiêu trên thị trường đó mà không cần phải nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài. Nhờ đó, cán cân thanh toán sẽ được cải thiện.

4.2. Tác động tiêu cực
Tạo sức ép đến các doanh nghiệp nội địa:
Các MNCs có nguồn lực mạnh và nền tảng công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ vận hành hiệu quả hơn, từ đó chiếm lĩnh nhanh chóng thị trường. Cuối cùng, nhu cầu đối với sản phẩm trong nước giảm, và chính điều này tạo nên sức ép lớn với các doanh nghiệp trong nước.
Bị phụ thuộc về kinh tế, chính trị và xã hội vào quốc gia đầu tư:
Các quốc gia đầu tư chắc chắn sẽ có vị thế và quyền lực nhất định về kinh tế – xã hội đối với quốc gia tiếp nhận vốn. Từ đó, các quốc gia phát triển sẽ có được sức mạnh chính trị nhất định đối với những quốc gia chậm phát triển, tạo ra rất nhiều nguy cơ mất ổn định về thể chế và chính trị của quốc gia nhận vốn.
Nguy cơ về bất bình đẳng trong thu nhập:
Các MNCs thường có chính sách chi trả lương tương đối cao hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Vì thế, sự bất bình đẳng trong thu nhập là điều không thể tránh khỏi, và tạo ra nhiều khó khăn trong việc quản trị nguồn nhân lực của các doanh nghiệp nội địa.
Giả thuyết Bãi xả ô nhiễm ngầm – Pollution Haven Hypothesis:
Giả thuyết này có quan điểm rằng mục đích thật sự của việc chuyển giao công nghệ trong đầu tư quốc tế là để giúp cho các quốc gia phát triển “thải” những công nghệ đã cũ của mình cho các quốc gia chậm phát triển để hạn chế chi phí về môi trường khi loại bỏ công nghệ cũ. Do đó, những quốc gia nhận vốn khi không có quy định chặt chẽ về môi trường sẽ vô tình trở thành “bãi phế liệu” của thế giới.

Tổng kết lại, thông qua nội dung trên đây, SSBM Việt Nam mong muốn có thể giúp bạn đọc hiểu được khái niệm và tác động của đầu tư quốc tế hiện nay. Nhờ vào những hiểu biết về các kênh đầu tư quốc tế trực tiếp hoặc gián tiếp, các nhà đầu tư có thể cân nhắc để tìm ra phương pháp hiệu quả nhất dành cho mình.